Những vấn đề ở chuồng đẻ: Heo nái cai sữa 0 con

M.A. de AndrésCarlos PiñeiroMaría Aparicio
29-Th1-2024 (Trước đó 9 tháng 23 ngày)

Một trong những vấn đề lớn xảy ra ở các trại nái là heo nái không cai sữa được heo con nào do các vấn đề trong quá trình đẻ hoặc cho con bú buộc tất cả heo con phải bị tách khỏi heo mẹ. Vấn đề này thậm chí thường gặp hơn trong bối cảnh chăn nuôi heo ngày nay, khi khả năng sinh sản ngày càng tăng khiến việc cung cấp cho tất cả heo con một núm vú chức năng trong toàn bộ thời kỳ theo mẹ ngày càng khó khăn.

Chúng tôi sẽ phân tích những con heo nái này sử dụng cơ sở dữ liệu PigCHAMP Pro Europa. Đầu tiên là phân tích sự tiến triển của tỷ lệ heo nái cai sữa 0 con trong 5 năm qua. Nhìn chung có thể thấy tỷ lệ heo nái cai sữa 0 con ngày càng tăng, ngoại trừ giữ ổn định vào năm ngoái. Do đó, mặc dù tỷ lệ phần trăm này thấp nhưng chúng ta có thể coi đây là một vấn đề đang gia tăng.

Bảng 1. Tỷ lệ heo nái cai sữa 0 con theo giai đoạn 12 tháng, 7/2016-6/2021.

7/2016 - 6/2017 7/2017 - 6/2018 7/2018 - 6/2019 7/2019 - 6/2020 7/2020 - 6/2021 Trung bình
Tổng số heo cai sữa (nº) 490,595 522,747 548,547 599,773 624,866 557,306
Số cai sữa 0 con (nº) 11,808 14,969 16,101 20,310 19,992 16,636
% cai sữa 0 con (%) 2.41% 2.86% 2.94% 3.39% 3.20% 2.99%

Nhìn vào kết quả trong giai đoạn từ 7/2020 đến 6/2021, sự phân bổ tỷ lệ phần trăm của những con heo nái này theo số lứa đẻ được hiển thị bên dưới. Tỷ lệ phần trăm tăng bắt đầu từ lứa 2, đạt điểm cao nhất ở những heo nái già (đẻ trên 6 lứa). Điều này có thể đoán trước được vì những heo nái lớn tuổi hơn thường gặp nhiều khó khăn hơn khi đẻ (thời gian đẻ lâu hơn, sa tử cung) và những vấn đề này khi đẻ có thể dẫn đến khởi đầu cho nuôi con kém và cuối cùng là heo nái không thể nuôi heo con. Nhưng hãy lưu ý tỷ lệ phần trăm heo nái lứa đầu tiên không cai sữa được heo con nào. Tỷ lệ này có lẽ cũng liên quan đến các vấn đề thích nghi với chuồng đẻ, hoặc các vấn đề trong quá trình đẻ (đường âm đạo hẹp, v.v.). Trong trường hợp đó, vấn đề ảnh hưởng đến những con heo nái này sẽ dẫn đến việc hầu như không có sự sinh lời đáng kể nào từ khi người chăn nuôi mua hoặc gây nái.

Percentage of sows weaning zero piglets categorized by parityCuối cùng những heo nái cai sữa 0 con có thể sẽ:

Biểu đồ sau đây cho thấy sự phân bổ theo kết quả cuối cùng của những con heo nái này. Thực tế thì mỗi một phần ba số nái đi đến từng kết quả, tức là chỉ có 30% heo nái cai sữa 0 con phục hồi. Về độ tuổi trung bình của những con heo nái này, những con đưa đi giết mổ là những con già hơn (lứa đẻ 4,9), trong khi những con hồi phục lại trẻ hơn (lứa đẻ 3). Còn những heo chết thì ở tuổi trung bình, lứa đẻ 3,7.Distribution of sows weaning zero piglets by subsequent destination

Cuối cùng, nếu chúng ta so sánh năng suất sau đó của những heo nái phục hồi sau khi cai sữa 0 con với năng suất của những heo nái đã cai sữa được heo con, chúng ta thấy rằng:

Bảng 2. Năng suất ở lứa đẻ tiếp theo theo số heo con được cai sữa, giai đoạn cai sữa 7/2020-6/2021.

Cai sữa 0 con Cai sữa > 0
Số heo nái được phối (nº) 5,897 548,152
Tuổi trung bình (lứa đẻ) 3.0 3.4
Khoảng thời gian cai sữa đến lần phối giống đầu tiên (ngày) 14.6 6.0
Lên giống lại (%) 14.3 8.4
Tỷ lệ đẻ (%) 73.0 84.5
Tổng số sinh (trung bình) 15.8 16.3
Sinh ra còn sống (trung bình) 14.1 14.6
Chết lưu (trung bình) 1.4 1.3
Thai khô (trung bình) 0.4 0.4
Cai sữa/nái (trung bình) 11.4 12.3
% cai sữa 0 con 9.5 3.0

Cuối cùng, lý do tại sao heo nái rốt cuộc phải cai sữa 0 con khá đa dạng: từ cái chết đột ngột trong chuồng đẻ đến các nguyên nhân khác nhau làm phát sinh những khó khăn lớn trong việc cho con bú, chẳng hạn như các vấn đề bệnh lý, các vấn đề nghiêm trọng về hình thể, kiểm soát môi trường kém trong ô đẻ (đặc biệt là nhiệt độ cao), hoặc đẻ khó mà heo nái không phục hồi đầy đủ.

Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định rằng những heo nái cai sữa 0 con ở chuồng đẻ là một vấn đề ngày càng gia tăng và khó giải quyết, vì những heo nái cố gắng phục hồi sau khi cai sữa 0 con cho năng suất thấp hơn rõ ràng so với những con còn lại và có nguy cơ đáng kể là sẽ tiếp tục thất bại trong lần nuôi con tiếp theo. Tất nhiên, đây là kết luận chung và mỗi nhà chăn nuôi phải xác minh điều này dựa trên dữ liệu từ trang trại của mình để đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu về việc có nên giữ những con heo nái này ở lại trang trại hay không. Ngoài ra, do cơ hội phục hồi thay đổi tùy theo nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng nên quyết định tiếp tục giữ loại heo nái này ở trang trại cũng phải dựa trên đánh giá của từng cá thể nái.