Oh S, Hosseindoust A, Ha S, Moturi J, Mun J, Tajudeen H, Kim J. Metabolic Responses of Dietary Fiber during Heat Stress: Effects on Reproductive Performance and Stress Level of Gestating Sows. Metabolites. 2022; 12(4): 280. https://doi.org/10.3390/metabo12040280
26-Th1-2023 (Trước đó 1 năm 9 tháng 26 ngày)Trong ngành chăn nuôi heo, heo nái đã được áp dụng các chương trình nhân giống thâm canh để cải thiện năng suất sinh sản. Kết quả là, những con vật này đã trải qua sự gia tăng tính nhạy cảm với các yếu tố gây căng thẳng như nhiệt độ. Tuy nhiên, người ta đã nghiên cứu rằng việc bổ sung chất xơ vào chế độ ăn có thể trở thành một lựa chọn phù hợp để điều chỉnh hành vi và sức khỏe sinh lý của động vật. Nghiên cứu này đánh giá tác động của hàm lượng chất xơ tẩy rửa axit đối với năng suất sinh sản, tính toàn vẹn của ruột và quá trình trao đổi chất của heo nái mang thai và ảnh hưởng của nó trong thời kỳ cho con bú khi bị stress nhiệt. Thử nghiệm được tiến hành trong hai tháng mùa hè và ghi lại nhiệt độ phòng cũng như độ ẩm tương đối. Ba mươi sáu heo nái đã đẻ nhiều lứa được sử dụng và được phân chia đồng đều dựa trên số lứa đẻ và trọng lượng cơ thể vào 3 lô thí nghiệm (12 nái/lô thí nghiệm) vào ngày thứ 90 của thai kỳ. Các chế độ ăn thử nghiệm bao gồm 4,3% (lượng chất xơ thấp), 5,4% (lượng chất xơ trung bình) và 6,5% (lượng chất xơ cao) chất xơ tẩy rửa axit. Tính trạng ổ đẻ tiêu chuẩn, trọng lượng cơ thể và độ dày mỡ lưng của heo nái được đo lường. Ngoài ra, khả năng tiêu hóa tổng thể của đường ruột, cortisol trong lông, các chất chuyển hóa trong phân, RNA của nhau thai cũng đã được đo lường.
Heo nái được cho ăn chế độ ăn nhiều chất xơ cho thấy tốc độ hô hấp, nồng độ cortisol trong lông và thời gian đẻ thấp hơn so với chế độ ăn ít chất xơ. Chế độ ăn nhiều chất xơ làm tăng chuyển hóa pyruvate, citrate, glyoxylate, dicarboxylate và thiamine so với chế độ ăn có lượng chất xơ trung bình. Nồng độ axetat và tổng số axit béo chuỗi ngắn đã tăng lên trên nái được cho ăn chế độ ăn nhiều chất xơ. Biểu hiện gen của chất vận chuyển glucose 3 và chất vận chuyển glucose 4 đã tăng lên trong lô nhiều chất xơ. Biểu hiện gen của protein sốc nhiệt 70 đã giảm trong lô cho ăn nhiều chất xơ. Khẩu phần giàu chất xơ trong thai kỳ làm tăng lượng ăn vào, chỉ số táo bón, trọng lượng heo con và trọng lượng lứa đẻ so với khẩu phần ít chất xơ. Heo nái ở lô ít xơ cho thấy tỷ lệ tiêu hóa protein thô cao nhất và tỷ lệ tiêu hóa chất xơ tẩy rửa axit thấp nhất.
Tóm lại, chế độ ăn chứa 6,5% chất xơ tẩy rửa axit có thể làm giảm tác động bất lợi của stress nhiệt trong thời kỳ mang thai. Hơn nữa, những tác động trong thời kỳ mang thai được phản ánh trong thời kỳ cho con bú như cải thiện mức tiêu thụ thức ăn, năng suất sinh sản và tốc độ tăng trưởng của ổ đẻ.