Ward SA, Kirkwood RN, Plush KJ, Abdella S, Song Y, Garg S. Development of a Novel Vaginal Drug Delivery System to Control Time of Farrowing and Allow Supervision of Piglet Delivery. Pharmaceutics. 2022; 14(2): 340. https://doi.org/10.3390/pharmaceutics14020340
22-Th12-2022 (Trước đó 2 năm)Ngành công nghiệp chăn nuôi heo đã phát triển đáng kể trong những thập kỷ gần đây, nhưng với cái giá đáng kể là khả năng sống sót của heo con. Phối nái để chọn lọc cho những giống cao sản hơn đi kèm với một tỷ lệ lớn hơn các heo con sinh ra bị thiếu cân, có sức sống kém hơn và mẫn cảm hơn đối với các nguyên nhân gây chết non. Việc thúc nái đẻ trong giờ làm việc có thể gia tăng khả năng sống sót của heo con, nhưng người ta thường không khuyến khích sử dụng các loại thuốc tiêm không trị liệu trong trang trại. Chúng tôi hướng mục tiêu thiết kế và phát triển một loại thuốc đặt âm đạo mới có thể chắc chắn kích hoạt phân giải thể vàng và khiến nái bắt đầu đẻ. Để có hiệu quả, hai viên thuốc có chứa tác nhân phân giải thể vàng cloprostenol được điều chế để được đặt chung với nhau vào âm đạo: một viên sẽ giải phóng các thành phần ngay lập tức khi chèn (giải phóng tức thì) và cái còn lại sẽ giải phóng cloprostenol một cách có kiểm soát (giải phóng có kiểm soát). Người ta đánh giá hai công thức này về độ giải phóng thuốc, khả năng gây sưng và dính sinh học trong điều kiện mô phỏng môi trường âm đạo nái. Viên thuốc giải phóng tức thì đã giải phóng thuốc hoàn toàn trong 5 phút trong khi viên thuốc giải phóng có kiểm soát mất 5 giờ để giải phóng 50% thuốc. Hơn nữa, động học giải phóng được đánh giá bằng cách lắp các cấu hình hòa tan vào các mô hình toán học khác nhau. Cả hai viên giải phóng tức thì và có kiểm soát đều được trang bị tốt nhất bởi mô hình MakoidTHER Tanakar, giả định giải phóng bằng cách tổng kết các cơ chế khác nhau. Hiệu suất của các công thức được tối ưu hóa đã được nghiên cứu in vivo (trên cơ thể sống) với 161 con nái Đại bạch x Landrace có các lứa đẻ khác nhau (0-5). Các nái được chia vào năm nhóm. Nhóm 1 nhận một lần tiêm cloprostenol vào âm hộ duy nhất vào lúc 0700 giờ, nhóm 2 nhận cùng một liều phân chia thành hai phần, lúc 0700h và 1300h. Nái nhóm 3 được đặt một viên giải phóng tức thì vào lúc 0700h, trong khi nhóm 4 được đặt cả 2 viên giải phóng tức thì và có kiểm soát vào lúc 0700 giờ. Nhóm 5 không được điều trị và dùng làm nhóm đối chứng.
Khoảng thời gian đến khi đẻ của nhóm đối chứng dài hơn so với nhóm được điều trị, nhưng không có sự khác biệt giữa các nhóm sử dụng cloprostenol đối với thời gian đẻ.
Kết quả trên xác nhận hiệu quả của thuốc đặt âm đạo mới để thúc đẻ trên nái.