Cúm
Cúm là một bệnh đường hô hấp có tầm quan trọng cao do khả năng lây truyền nhanh và lây từ động vật sang người.
Các tên khác: Cúm heo, influenza type A
Thông tin
Cúm heo gây ra bởi một số loại virus Cúm A có liên quan chặt chẽ với nhau, có đặc điểm là có khả năng thay đổi cấu trúc kháng nguyên và tạo ra các chủng mới.
Mỗi serotype được xác định thông qua các protein bề mặt được gọi là "H" và "N". Ba serotype phổ biến nhất ảnh hưởng đến heo là H1 N1, H1 N2 và H3 N2. Ngoài ra còn có các chủng khác của các serotype này có khả năng gây bệnh khác nhau và không có bảo hộ chéo.
Thời gian ủ bệnh rất ngắn từ 12 đến 48 giờ. Virus ảnh hưởng đến hệ hô hấp. Virus có thể lây nhiễm cả trại trong vài ngày. Khả năng truyền cao này gần như là đặc điểm chính giúp chẩn đoán.
Có ba giai đoạn quan trọng mà bệnh có thể gây vô sinh, và tất cả đều do sốt và hậu quả của nó tùy thuộc vào giai đoạn mang thai vì virus không gây bệnh toàn thân và không truyền qua nhau thai. Như vậy, các bào thai không bị nhiễm bệnh.
- Đầu tiên, nếu nái bị bệnh trong 21 ngày đầu của thai kỳ, virus có thể ngăn cản quá trình cấy phôi, và làm heo lên giống lại ở ngày 21. Nếu thai đã được hình thành từ 14 đến 16 ngày sau khi phối tinh thì sẽ làm nái lên giống trễ.
- Thứ hai, nếu nhiễm trùng xảy ra trong 5 tuần đầu của thai kỳ, phôi chết và tái hấp thu có thể xảy ra, gây ra hiện tượng nái mang thai giả và nái không có heo con. Kích thước ổ đẻ có thể bị ảnh hưởng tại thời điểm này do sự tái hấp thu của phôi. Đến cuối thời kỳ mang thai, sẽ có hiện tượng sảy thai hoặc thai khô lớn khi đẻ.
- Ảnh hưởng chính thứ ba là đối với nọc giống, trong đó nhiệt độ cơ thể tăng lên có thể ảnh hưởng đến tinh dịch và làm giảm khả năng sinh sản trong thời gian từ 4 đến 5 tuần.
Ở các trang trại lớn, bệnh cúm có thể trở thành dịch địa phương với các đợt bùng phát liên tục với các triệu chứng lâm sàng và vô sinh. Các chủng khác nhau có thể ảnh hưởng liên tiếp đến một trại.
Triệu chứng
Nái
- Nhiệt độ tăng cao có thể gây sảy thai.
- Ho thông thường.
- Viêm phổi.
Khi virus xâm nhập vào trang trại lần đầu tiên, 2 hoặc 3 con heo có triệu chứng bệnh trong 2 ngày đầu tiên, sau đó là:
- Một đợt bùng phát nhanh chóng, trong đó hầu như tất cả các heo bỏ ăn, và biểu hiện lâm sàng rất yếu sau 2 đến 3 ngày kể từ khi nhiễm virus.
- Các ảnh hưởng đến hệ sinh sản biểu hiện ra sau khi bệnh đường hô hấp khởi phát với ho, viêm phổi, sốt và chán ăn.
- Tình trạng suy hô hấp cấp tính xảy ra mà không lây nhiễm sang nhóm heo kế bên diễn ra trong 7 đến 10 ngày (tùy thuộc vào thời gian tiếp xúc giữa các nhóm kéo dài bao lâu).
Trong những khu khác của trang trại:
- Khởi phát nhanh bệnh cấp tính ở nái.
- Ho và viêm phổi nhanh chóng lan rộng.
- Heo trở lại trạng thái bình thường sau 7 đến 10 ngày.
- Lên giống trễ sau khi cai sữa.
- Tăng số heo lên giống lại sau (phối) 21 ngày.
- Tăng số lượng lên giống bất thường.
- Tăng số lượng nái không có heo con khi chuyển sang khu đẻ.
- Số ca sảy thai ngày càng tăng, nhất là 3 tháng cuối của thai kỳ.
- Tăng số heo con chết lưu và kéo dài thời gian đẻ.
- Đôi khi số lượng thai khô tăng lên.
Heo con theo mẹ
- Các triệu chứng ở heo con rất hiếm, trừ khi bệnh lần đầu tiên xâm nhập vào trại .
- Sữa non có thể ngăn ngừa nhiễm trùng trong giai đoạn theo mẹ.
- Ho
- Viêm phổi.
- Sốt.
Heo cai sữa và heo choai
Bệnh cấp tính
- Thường thì heo đột ngột nằm xuống.
- Khó thở.
- Ho dữ dội.
- Hầu hết các con vật trông giống như sắp chết, nhưng chúng lại sống sót mà không cần điều trị, trừ khi trại đã có vấn đề về hô hấp.
- Cúm tự gây ra bệnh viêm phổi nặng, nhưng khi kết hợp với các bệnh nhiễm trùng khác, chẳng hạn như Actinobacillus pleuropneumoniae và PRRS, có thể xảy ra hội chứng hô hấp nặng mãn tính khó điều trị. Những con heo bị ảnh hưởng nặng phải được điều trị bằng kháng sinh để ngăn chặn sự phát triển của bệnh viêm phổi thứ phát.
Bệnh đặc hữu
- Trong trường hợp này, virus vẫn ở trong trại, ảnh hưởng đến các nhóm heo nhỏ, chủ yếu là heo cai sữa. Virus có thể gây ra các bệnh đường hô hấp dai dẳng, có các triệu chứng tương tự như bệnh cấp tính, nhưng ít nghiêm trọng hơn.
Nguyên nhân / Yếu tố đóng góp
Cúm có thể được mang vào trại bởi:
- Những người bị nhiễm bệnh.
- Heo mang trùng.
- Các loài chim, chủ yếu là thủy cầm là vật chủ tích trữ của mầm bệnh.
- Nhiễm trùng do vi khuẩn thứ cấp.
- Các bệnh đồng nhiễm PRRS.
- Biến động nhiệt độ.
- Stress.
- Vật liệu lót sàn và sàn ẩm.
- Môi trường không thích hợp và hệ thống thông thoáng không tốt làm tăng mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Chẩn đoán
Trong thể bệnh cấp tính, một chẩn đoán đáng tin cậy có thể được thực hiện dựa trên các dấu hiệu lâm sàng, do thực tế là không có bệnh nào khác có tốc độ lây truyền nhanh chóng và tác động lâm sàng đáng kể như vậy. Các mẫu máu được lấy từ nái khi bắt đầu bị bệnh và từ 2 đến 3 tuần sau cho thấy nồng độ kháng thể tăng lên. Có thể xác định virus cúm từ mẫu ngoáy mũi và phân tích bằng PCR. Dịch hầu họng cũng có thể được sử dụng, cho kết quả tốt.
Tuy nhiên, thể bệnh đặc hữu có thể khó phân biệt với các dạng bệnh do virus khác. Cần phải xem xét cả PRRS và bệnh Aujeszky.
Thực hiện giải trình tự gene là rất quan trọng để thiết lập chủng vaccine.
Kiểm soát/Phòng ngừa
- Nái và nọc giống có các triệu chứng của bệnh cấp tính như tăng thân nhiệt và tốc độ thở phải được điều trị bằng kháng sinh phổ rộng.
- Kiểm soát viêm phổi do vi khuẩn thứ phát bằng kháng sinh.
- Tiêm cho những con vật bị ảnh hưởng nặng nhất.
- Pha thuốc nước từ 3 đến 5 ngày.
- Sử dụng thuốc kháng viêm để giảm thiểu tổn thương hệ hô hấp.
- Có một số loại vaccine hiệu quả, nhưng điều quan trọng là vaccine phải chứa chủng thích hợp cho từng trang trại.
Atlas bệnh học
Xem các hình ảnh trong Atlas có liên quan đến Cúm