Trong những năm gần đây, Tây Ban Nha đã trở thành một trong những nước sản xuất và xuất khẩu thịt heo hàng đầu thế giới. Đây cũng là điều dẫn đến sự nhập khẩu một số lượng lớn heo, có thể được chia thành ba loại:
Heo nuôi vỗ béo:
Heo con sinh ra tại Tây Ban Nha không đủ để thả đầy các trại thịt hiện có, nên người ta nhập khẩu heo con để bù đắp cho sự mất cân bằng này.
Heo giống:
Đồng thời, nhu cầu về nái cao sản tăng đã làm nhập khẩu nái giống tăng. Sản xuất trong nước không đáp ứng được nhu cầu này, vì hầu hết các giống di truyền này không bắt nguồn từ Tây Ban Nha. Về nọc giống, Tây Ban Nha hiện đã phụ thuộc vào các nước khác cung cấp trong nhiều năm.
Heo để giết mổ:
Kể từ năm 2020 đã có sự gia tăng nhập khẩu heo nuôi ở các quốc gia khác được giết mổ trong các lò mổ của Tây Ban Nha.
Về các quốc gia xuất xứ của hàng trăm nghìn con heo nhập khẩu này, thì Bồ Đào Nha dẫn đầu về tổng số lô hàng, với heo chủ yếu để giết mổ. Vị trí thứ hai là Hà Lan, nơi chủ yếu xuất heo con nuôi thịt. Tiếp theo là Pháp và Bỉ, với heo chủ yếu để giết mổ, và Đan Mạch, là nước xuất khẩu với số lượng hậu bị giống cao nhất. Với số lượng nhỏ hơn nhiều, chúng ta có: Luxembourg, Na Uy, Cộng hòa Séc, Ireland, Ý và Áo.
Theo luật phúc lợi heo của châu Âu, các hoạt động di chuyển trong cộng đồng kéo dài hơn 24 giờ buộc phải dừng và dỡ heo ở những nơi quy định, điều này làm tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh tại các điểm dừng này.
Nhập khẩu một lô heo = Nhập khẩu một rủi ro
Nguy cơ xâm nhập của các mầm bệnh mới và/hoặc các chủng mầm bệnh mới chưa được phát hiện trước đây trong nước tăng tỷ lệ thuận với sự gia tăng các đợt di chuyển do nhập khẩu heo.
Có thương mại tự do (free trade) trong việc di chuyển heo giữa các nước EU, miễn là tình trạng sức khỏe liên quan đến các bệnh nguy hiểm phải khai báo cho phép.
Nhờ Quy định của EU 2020/686, việc kiểm soát huyết thanh học đối với virus PRRS là bắt buộc trong quá trình vận chuyển nọc trong cộng đồng nhưng, miễn là các yêu cầu về sức khỏe đối với việc nhập khẩu heo giống, heo để vỗ béo hoặc heo giết mổ được đáp ứng, chúng chỉ phụ thuộc vào thỏa thuận riêng giữa các bên: người mua và người bán. Theo cách này, người mua nên yêu cầu tình trạng sức khỏe không gây rủi ro, không chỉ đến trại nhận mà còn xem xét khu vực hoặc quốc gia của trại nhận, trong trường hợp khó kiểm soát sinh học đối với mầm bệnh ở trại/lò mổ của điểm đến, như đã được chứng minh trong các trường hợp gần đây về các chủng virus PRRS có khả năng gây bệnh không điển hình được phát hiện trong quá trình nhập khẩu heo con từ các nước như Hà Lan hoặc Ý.
Tại Hungary, họ xác định rằng áp lực lây nhiễm do các lô nhập khẩu heo con bị nhiễm virus PRRS cao nằm trong các trại thịt xung quanh các trại nái đã cản trở kế hoạch tiệt trừ toàn quốc mà Hungary đã khởi xướng. Bằng cách giám sát huyết thanh các lô heo tại thời điểm đến, họ đã phân loại từng quốc gia vào năm 2013 theo mức độ nhiễm virus PRRS của heo con nhập khẩu. Sau đó, các nhà chăn nuôi đã đồng ý ưu tiên nhập khẩu heo con từ các nước có mức độ nhiễm PRRS thấp hơn, như trong bảng dưới đây:
Bảng 1. Nguồn gốc và mức độ lây nhiễm virus PRRS ở các trang trại nuôi vỗ béo ở Hungary. Szabó và cộng sự. (2019).
Nước xuất xứ |
2013 | 2018 | Tình trạng PRRS của nước xuất xứ (2018) | ||
---|---|---|---|---|---|
Lô | Số heo | Lô | Số heo | ||
Áo | 16 | 5,650 | 11 | 4,672 | Nhiễm, nhưng trước đó không có |
Cộng hoà Séc | 17 | 3,347 | 91 | 57,315 | Hầu hết heo không nhiễm |
Đan Mạch | 20 | 4,591 | 190 | 116,916 | Nhiễm, nhưng hiện đang thực hiện tiệt trừ |
Đức | 348 | 236,724 | 769 | 498,490 | Nhiễm, phân loại rất đáng tin cậy |
Hà Lan | 237 | 279,036 | 7 | 5,256 | Nhiễm nặng |
Slovakia | 103 | 69,551 | 74 | 42,192 | Nhiễm |
Slovenia | 8 | 3,440 | 0 | 0 | Nhiễm |
Ý | 0 | 0 | 0 | 0 | Nhiễm |
Ba Lan | 0 | 0 | 34 | 25,450 | Nhiễm |
Tổng cộng | 749 | 602,339 | 1,176 | 750,291 |
Nếu chúng ta xem xét dữ liệu từ việc giám sát huyết thanh được thực hiện ở một số lô nhập khẩu heo con để vỗ béo ở một khu vực cụ thể của Tây Ban Nha, kết quả cho thấy rằng tỉ lệ % lô hàng phát hiện heo nhiễm virus thay đổi tùy theo quốc gia xuất xứ của heo con (xem bảng), như được công bố ở Hungary.
Bảng 2. Tỷ lệ phần trăm lô hàng có heo nhiễm virus được phát hiện.
2021 | Tỉ lệ nhiễm | Tỉ lệ không nhiễm |
---|---|---|
Hà Lan | 61% | 39% |
Đan Mạch | 36% | 64% |
Trong tình huống này, khả năng có sự xâm nhập của một dòng virus PRRS mới gây bệnh không điển hình và khả năng nó phát tán nhanh chóng trong một vùng lãnh thổ là rất cao.
Trong cây phát sinh loài sau đây về trình tự ORF5 được phát hiện từ năm 2017 đến năm 2021 trong vùng kiểm soát PRRS, có thể thấy ba vùng:
- Trình tự virus được phát hiện ở heo con Hà Lan nhập khẩu từ năm 2020-2021.
- Trình tự của một chủng gây bệnh không điển hình được phát hiện trong khoảng thời gian từ năm 2020-2021 phát tán rộng rãi, thường được gọi là chủng "Rosalia".
- Các trình tự hầu hết được phát hiện trong khoảng thời gian từ 2017-2019.
Nếu chúng ta muốn tránh sự lây lan toàn cầu các bệnh mới và các chủng tác nhân gây bệnh mới, ngoài các bệnh nguy hiểm, chẳng hạn như virus PRRS hoặc các virus và vi khuẩn khác, chúng ta phải tăng cường các yêu cầu về sức khỏe khi vận chuyển heo nhập khẩu và xác minh tình trạng sức khỏe theo thỏa thuận với người bán bằng cách thực hiện các kiểm soát huyết thanh khi đến nơi. Theo cách này, tác động kinh tế do sự hiện diện của dịch bệnh trong trại sẽ thấp hơn và chúng ta sẽ ít cần sử dụng thuốc kháng sinh hơn để kiểm soát các bệnh nhiễm khuẩn nguyên phát và/hoặc thứ phát.