X
XLinkedinWhatsAppTelegramTelegram
0
Đọc bài báo này bằng:

Cấu trúc của cám và sức khỏe heo con

Việc xây dựng cấu trúc trong thức ăn có thể có lợi, nhưng liệu đây có phải là dấu chấm hết cho phương pháp truyền thống nghiền tất cả các thành phần theo cùng một cách?

Ngành chế biến thức ăn cho heo đã nhận được nhiều sự quan tâm hơn trong những năm gần đây. Ở hầu hết các nước của Liên minh châu Âu (EU), thức ăn cho heo theo truyền thống được chế biến bằng cách nghiền nát tất cả các nguyên liệu thô bằng máy nghiền búa (hammer mill) và sau đó ép viên; bằng cách đó, hiệu quả chuyển hoá thức ăn (FCR) ở heo có thể tăng khoảng 2% so với việc sử dụng thức ăn bột. Tuy nhiên, chúng ta thường thấy rằng nếu khẩu phần ăn được nghiền quá mịn (>80% hạt < 200 µm), thời gian lưu lại trong dạ dày trở nên quá ngắn, điều này có thể là nguyên nhân của các vết loét dạ dày và làm rối loạn chức năng hàng rào bảo vệ niêm mạc dạ dày. Mặt khác, kéo dài thời gian lưu thức ăn trong dạ dày, ở một mức độ nào đó, có thể trở nên có lợi cho heo con. Ví dụ, việc cải thiện quá trình thủy phân protein trong dạ dày sẽ dẫn đến khả năng tiêu hóa protein cao hơn trong ruột non.

Vì vậy, lời khuyên của chúng tôi dành cho các chuyên gia dinh dưỡng là hãy suy nghĩ về cách xây dựng cấu trúc thức ăn để tăng khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng và cải thiện chức năng dạ dày và sức khỏe đường ruột, thay vì nghĩ đến việc làm thế nào để khiến khẩu phần càng mịn càng tốt để chỉ tăng được khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng. Do đó, điều quan trọng là phải xây dựng khẩu phần với các kích thước hạt khác nhau bằng cách bổ sung thêm các hạt thô (coarse particle) để tối ưu chức năng dạ dày và vận chuyển các hạt tiêu hóa (digesta particle) dần dần từ dạ dày xuống ruột non. Cấu trúc thức ăn này có thể được tạo ra bằng cách nghiền các thành phần đơn lẻ có giá trị năng lượng thấp, như cám lúa mì hoặc rơm lúa mì. Người ta đã chứng minh (Molist và cộng sự, 2011) rằng cho heo con ăn cám lúa mì thô chứ không nghiền mịn (với tỉ lệ trộn 4% trong công thức cám) trong hai tuần đầu tiên sau cai sữa, có hiệu quả trong việc giảm độ bám của E. coli vào niêm mạc hồi tràng và trong việc giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh tiêu chảy sau khi bị nhiễm E. coli sinh độc tố ruột (Hình 1).

H&igrave;nh 1. Tổng số E. coli v&agrave; E. coli K88 cụ thể gắn v&agrave;o ni&ecirc;m mạc hồi tr&agrave;ng của heo con sau cai sữa sau khi nhiễm E. coli K88 (phỏng theo Molist v&agrave; cộng sự, 2011). x, y C&aacute;c chỉ số tr&ecirc;n kh&aacute;c nhau trong một cột cho thấy sự kh&aacute;c biệt đ&aacute;ng kể giữa c&aacute;c chế độ ăn (P &lt;0,05). ab C&aacute;c chỉ số tr&ecirc;n kh&aacute;c nhau trong một cột cho thấy sự kh&aacute;c biệt đ&aacute;ng kể giữa c&aacute;c chế độ ăn uống (P &lt;0,05).

Hình 1. Tổng số E. coli và E. coli K88 cụ thể gắn vào niêm mạc hồi tràng của heo con sau cai sữa sau khi nhiễm E. coli K88 (phỏng theo Molist và cộng sự, 2011). x, y Các chỉ số trên khác nhau trong một cột cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các chế độ ăn (P <0,05). ab Các chỉ số trên khác nhau trong một cột cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các chế độ ăn uống (P <0,05).

Mặc dù số lượng các nghiên cứu trên heo con cai sữa đánh giá hiệu quả của hạt thô trong khẩu phần còn hạn chế, nhưng các nghiên cứu trên heo choai đã liên tục cho thấy những tác động có lợi. Trong một nghiên cứu của Hedemann và cộng sự (2005), heo choai (33 kg thể trọng) được cho ăn chế độ ăn thô bất kể bột hay ép viên (80,1% số hạt <1000 µm, 15,6% từ 1000 đến 2000 µm, 2,1% từ 2000 đến 3500 µm , và 2,3% > 3500 µm) cho thấy thể trọng khi dạ dày rỗng tương đối cao hơn (+7%) so với heo được cho ăn chế độ ăn mịn (93,6% số hạt <1000 µm, 6,4% từ 1000 đến 2000 µm, 0,0 % trong khoảng từ 2000 đến 3500 µm, và 0,0% > 3500 µm). Trong một nghiên cứu thứ hai (Warneboldt và cộng sự, 2016) sử dụng những con heo có cùng thể trọng, người ta đã chỉ ra rằng độ pH của thức ăn trong đáy vị dạ dày của những con heo được cho ăn khẩu phần thô (đường kính trung bình 671 µm; pH 2,5) là thấp hơn so với heo ăn khẩu phần nghiền mịn (đường kính trung bình 217 µm; pH 5,0). Trong một nghiên cứu thứ ba từ Bornhorst và cộng sự (2013), người ta đo thời gian lưu trong dạ dày của những con heo 30 kg được cho ăn khẩu phần có tỷ lệ thóc cao (có chứa vỏ trấu) hoặc gạo trắng đã tách vỏ. Thời gian lưu trong dạ dày của heo ăn thóc kéo dài hơn so với heo ăn gạo trắng đã tách vỏ, do vỏ trấu tồn tại lâu hơn trong dạ dày. Việc vỏ trấu lưu lại trong dạ dày lâu hơn dẫn đến pH dạ dày thấp hơn trong 20 phút sau khi ăn so với những con heo ăn khẩu phần có gạo đã tách vỏ (Hình 2).

H&igrave;nh 2. Độ pH trong dạ d&agrave;y ở đ&aacute;y vị tại c&aacute;c thời điểm kh&aacute;c nhau (20 đến 300 ph&uacute;t) sau khi ăn (phỏng theo Bornhorst v&agrave; cộng sự, 2013).

Hình 2. Độ pH trong dạ dày ở đáy vị tại các thời điểm khác nhau (20 đến 300 phút) sau khi ăn (phỏng theo Bornhorst và cộng sự, 2013).

Trong thực tế, có thể khó tìm ra các phụ phẩm giàu chất xơ (ví dụ như cám lúa mì hoặc trấu yến mạch) có thể nghiền thô được hoặc chúng cũng có thể bị nhiễm các hợp chất không mong muốn (ví dụ như độc tố nấm mốc). Nếu không thể xây dựng cấu trúc thức ăn được bằng cách bổ sung các phụ phẩm giàu chất xơ này, chúng ta sẽ cần tìm các loại cám khác. Không được xay thô các nguồn protein để tránh khả năng tiêu hóa protein bị suy giảm. Vì vậy, lựa chọn còn lại để xây dựng cấu trúc thức ăn là các nguồn nguyên liệu giàu tinh bột, ví dụ như ngũ cốc. Một việc khả thi là thêm một tỷ lệ các loại ngũ cốc dưới dạng ngũ cốc nguyên hạt vào máy trộn và sau đó ép viên. Một phương án khác là nghiền một tỷ lệ nhỏ các loại ngũ cốc (chẳng hạn như 5%) trong máy nghiền con lăn (roller mill) và sau đó ép viên. Sự thành công của chiến lược này sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ của ngũ cốc, ở dạng nguyên hạt hoặc nghiền (bằng con lăn), sẽ giữ nguyên cấu trúc sau khi ép viên. Từ kinh nghiệm mà chúng tôi đã xây dựng cho đến nay, có vẻ như việc thêm 5% lúa mạch đã nghiền (bằng con lăn) vào hỗn hợp và sau đó ép viên khẩu phần ăn có thể đủ để tạo ra một số tác động tích cực đối với thời gian lưu lại dạ dày và sức khỏe đường ruột của heo con sau cai sữa. Trong những năm tới, nhiều nghiên cứu hơn sẽ được tiến hành về cách tối ưu hóa cấu trúc thức ăn ở heo bằng cách chế biến đơn lẻ một số thành phần. Kỷ nguyên nghiền tất cả các nguyên liệu theo cùng một cách có thể sẽ kết thúc nếu chúng ta muốn đạt được sự cân bằng hợp lý giữa FCR và sức khỏe đường ruột ở heo.

Bình luận bài báo

Mục đích của phần này không phải để kham khảo ý tác giả về bài báo mà là nơi thảo luận cởi mở giữa những người dùng 333.
Để lại một bình luận mới

Quyền truy cập chỉ dành cho người dùng 333. Để bình luận bạn cần đăng nhập.

Bạn chưa đăng ký vào danh sách nhận 333 trong 3 phút

Bản tin tuần với tất cả các cập nhật trên 3tres3.com

Đăng nhập và đăng ký vào danh sách

Bài báo liên quan

H&igrave;nh 2. Khuyến kh&iacute;ch heo uống nước khi cai sữa cũng quan trọng như ăn c&aacute;m. Nguồn nước ch&iacute;nh trong ph&ograve;ng đẻ l&agrave; sữa, v&igrave; vậy điều quan trọng l&agrave; phải gi&uacute;p heo con t&igrave;m v&agrave; uống nước sạch c&agrave;ng sớm c&agrave;ng tốt.

Cai sữa không dùng kẽm oxit (2/3): Khuyến khích heo con ăn cám sau khi cai sữa

Lệnh cấm sử dụng kẽm oxit bắt đầu từ tháng 6 năm 2022 khiến ta cần phải xem xét và cải thiện nhiều khía cạnh của việc cai sữa, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của nó. Với Alberto García và Chretien Gielen, chúng tôi bàn đến các điểm quan trọng trong quản lý để cai sữa thành công mà không cần sử dụng kẽm oxit.

Bạn chưa đăng ký vào danh sách nhận 333 trong 3 phút

Bản tin tuần với tất cả các cập nhật trên 3tres3.com

Đăng nhập và đăng ký vào danh sách